Hết hạn lấy ý kiến
Báo cáo Việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017
Ngày hết hạn: 10/09/2017
Lĩnh vực văn bản: Bình đẳng giới
Loại văn bản: Khác
Lần dự thảo:

BÁO CÁO

Việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017

Kính gửi: Quốc hội

­Thực hiện Điều 13 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Chính phủ báo cáo Quốc hội về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017 với những nội dung cụ thể như sau:

I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI

1. Xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới và thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế - xã hội

Sau 10 năm Luật Bình đẳng giới có hiệu lực thi hành, việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện bài bản hơn. Năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành ban hành hoặc trình ban hành theo thẩm quyền  09 luật, 08 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 03 Nghị định, 05 Thông tư liên quan hoặc được thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 đã tạo ra khung pháp lý chặt chẽ, mang tính nguyên tắc, định hướng công tác lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Để triển khai thực hiện Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở đó các Bộ, ngành đã tiến hành triển khai, hướng dẫn việc thực hiện Luật trong đơn vị mình, trong đó lưu ý các vấn đề mới liên quan đến nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Một số Bộ như Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải đã chủ động ban hành Thông tư quy định về việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực do Bộ quản lý, trong đó có quy định về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới. Một số đơn vị đã chủ động xây dựng các chính sách riêng nhằm hỗ trợ phụ nữ như Bộ Giao thông vận tải có chính sách hỗ trợ cán bộ nữ đi đào tạo nghiên cứu sinh, Bộ Xây dựng thực hiện các chính sách về nhà ở, chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệp tập trung.

Có thể nói, mặc dù việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế - xã hội đã được các Bộ, ngành, địa phương quan tâm song còn ở mức độ hạn chế, thực hiện còn mang tính hình thức, thủ tục. Đây là một trong các nội dung còn tồn tại trong triển khai công tác bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay.

Để có thể đánh giá toàn diện việc triển khai thực hiện Luật Bình đẳng giới, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch tổng kết 10 năm thi hành Luật Bình đẳng giới và dự kiến thực hiện tổ chức hoạt động tổng kết vào cuối năm 2017. Đây được coi là căn cứ quan trọng trong việc xem xét hiệu quả của Luật Bình đẳng giới và đề xuất những giải pháp để tăng cường hiệu quả công tác thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong thời gian tới.

2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới

Nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác truyền thông về bình đẳng giới. Một số hoạt động chính như:

- Định hướng các cơ quan thông tấn báo chí đẩy mạnh các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới cho mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục duy trì hoạt động truyền thông về bình đẳng giới dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Nhiều địa phương đã có sáng kiến hay trong việc tổ chức các hoạt động truyền thông thu hút được sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân.

- Triển khai các hoạt động truyền thông, tuyên truyền, tập huấn, nhằm tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia đại biểu Quốc hội khoá XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

- Năm 2016 là năm đầu tiên các cơ quan Chính phủ phối hợp các cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam, các Đại sứ quán và các tổ chức phi chính phủ trong nước, quốc tế tổ chức Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới (Tháng hành động) với chủ đề “Chung tay xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái” từ ngày 15/11-15/12 trên phạm vi toàn quốc. Nhiều thông điệp, hình ảnh truyền thông kêu gọi mọi người dân cùng chung tay xóa bỏ bất bình đẳng giới và chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái đã được lan tỏa rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đã có 07 Bộ, ngành, 55 tỉnh, thành phố, 18 tổ chức trong nước và quốc tế triển khai trên 800 hoạt động hưởng ứng Tháng hành động, thu hút hàng vạn người trực tiếp tham gia.

3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ hoạt động về bình đẳng giới

a) Tổ chức, bộ máy làm công tác bình đẳng giới

Thực hiện quy định về cơ cấu tổ chức của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, hầu hết các địa phương đã giao việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới cho Phòng Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới đảm nhiệm. Riêng Sở Lao động - Thương binh và Xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh vẫn giữ Phòng Bình đẳng giới và một số tỉnh như Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Lai Châu tiếp tục giao cho Văn phòng Sở thực hiện công tác này.

Tổng hợp số liệu từ các báo cáo cho thấy, cả nước hiện có 1.089 cán bộ làm công tác bình đẳng giới, trong đó: cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 143 người (nữ chiếm 75%); cấp huyện là 946 người (nữ chiếm 70,7%); ở cấp xã công tác bình đẳng giới do cán bộ phụ trách công tác Lao động - Thương binh và Xã hội kiêm nhiệm (riêng thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Sóc Trăng có 1/2 cán bộ làm công tác bình đẳng giới).

Trong 143 cán bộ làm công tác bình đẳng giới ở cấp tỉnh, có 78 cán bộ chuyên trách, còn lại phần lớn là cán bộ Lãnh đạo hoặc phụ trách kiêm nhiệm. Trung bình mỗi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có 2 cán bộ làm công tác bình đẳng giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì sự phân bổ cán bộ ở các địa phương không đều, phần lớn các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ giao cho 01 cán bộ thực hiện công tác này. Như vậy, số lượng cán bộ làm công tác bình đẳng giới hiện nay còn ít so với yêu cầu triển khai nhiệm vụ được giao. Nhiều địa phương còn chưa bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác bình đẳng giới. Điều này cho thấy, việc bố trí nguồn lực cho thực hiện công tác này còn chưa được quan tâm đầy đủ và đúng mức.

 b) Hoạt động đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực về bình đẳng giới

 Các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác bình đẳng giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật và xây dựng, phát triển các tài liệu, góp phần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho các cán bộ pháp chế ở các Bộ, ngành, địa phương cũng được chú trọng thông qua các lớp tập huấn và các hoạt động triển khai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

 4. Xây dựng, duy trì các mô hình cung cấp dịch vụ, hỗ trợ bình đẳng giới

Ngày 26/8/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 73/NQ-CP về việc phê duyệt chủ trương đầu tư các Chương trình mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 - 2020. Chương trình này đã bao gồm nội dung về xây dựng và triển khai một số mô hình cung cấp dịch vụ phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Việc triển khai các mô hình này gắn liền với việc triển khai Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020 và Đề án phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã đồng ý để Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng với Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đề xuất Dự án xây dựng mô hình hỗ trợ phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái tại Việt Nam giai đoạn 2017-2019. Dự án sẽ triển khai mô hình Trung tâm can thiệp bạo lực trên cơ sở giới tại Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh. Một số tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế cũng đã phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước thí điểm các mô hình phòng chống bạo lực trên cơ sở giới như: Actionaid, Plan, Csaga,...

5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại t cáo việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới

         Năm 2016, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình đẳng giới đã được nhiều Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện.

Chính phủ đã tổ chức triển khai các đoàn kiểm tra liên ngành về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ tại 03 Bộ, ngành (Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Đảng Ủy khối cơ quan Trung ương) và 05 địa phương (thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Điện Biên). Trong 6 tháng đầu năm 2017, triển khai 04 đoàn kiểm tra tại 07 địa phương (Trà Vinh, Hậu Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị). Kết quả kiểm tra tại các đơn vị, địa phương cho thấy công tác bình đẳng giới đã được triển khai ngày một bài bản hơn. Một số đơn vị, địa phương đã có sáng kiến lồng ghép công tác bình đẳng giới trong quá trình triển khai nhiệm vụ chuyên môn (như các hoạt động nghiên cứu hỗ trợ việc triển khai lồng ghép giới trong một số lĩnh vực, hội thi tuyên truyền viên, dân vận khéo…). Các đoàn kiểm tra cũng ghi nhận nhiều kiến nghị, đề xuất từ đơn vị, địa phương liên quan tới việc hướng dẫn triển khai hoạt động, tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực và một số vấn đề gây tổn thất nhiều cho người dân trên địa bàn nói chung, phụ nữ và trẻ em gái nói riêng như tình trạng biến đổi khí hậu, xâm lấn biển, ngập mặn tại Bạc Liêu, Cà Mau.

         Các Bộ, ngành, địa phương đã tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về bình đẳng giới tại các cơ quan, doanh nghiệp, trong đó đã tiến hành xử phạt hành chính đối với doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.

         Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới tại một số địa phương và việc chấp hành các quy định về bình đẳng giới tại 121 doanh nghiệp trên địa bàn 16 tỉnh, thành phố. Qua thanh tra, kiểm tra chưa phát hiện hành vi vi phạm nghiêm trọng liên quan đến việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; các lỗi nhỏ đã được nhắc nhở, kiến nghị để các địa phương, đơn vị thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới cũng như thực hiện đúng chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.

Đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, các Bộ, ngành, địa phương chưa nhận được vụ việc nào có nội dung khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bình đẳng giới.

6. Công tác nghiên cứu, thống kê, công bố thông tin, số liệu về bình đẳng giới

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng số liệu các chỉ tiêu thuộc Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đánh giá việc triển khai chế độ báo cáo theo quy định. Kết quả cho thấy, có 13/105 chỉ tiêu (12,38%) đã thu thập được đầy đủ số liệu theo các phân tổ, 68/105 chỉ tiêu (64,76%) thu thập số liệu không đầy đủ các phân tổ và 24/105 chỉ tiêu (22,85%) không thu thập được số liệu.

Trong khuôn khổ hợp tác với Cơ quan Liên hợp quốc về trao quyền cho phụ nữ (UNWomen), Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thu thập biên soạn, xuất bản cuốn “Thực tiễn và số liệu về phụ nữ và nam giới tại Việt Nam 2010-2015”.

7. Công tác bố trí kinh phí cho hoạt động bình đẳng giới

- Năm 2016 thực hiện chủ trương về tiết kiệm chi ngân sách, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành có liên quan trong việc điều hành, phân bổ kịp thời kinh phí ngân sách cho hoạt động bình đẳng giới tại các Bộ, ngành, địa phương và việc triển khai, thực hiện Chiến lược và Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới theo hướng tiết kiệm, hiệu quả. Cụ thể như sau:

+ Kinh phí triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 theo Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ được bố trí trong dự toán chi thường xuyên của các Bộ, ngành, địa phương theo phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành. Tuy nhiên, còn rất hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.

+ Kinh phí triển khai thực hiện Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020 và Đề án phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến 2030: ngoài kinh phí thường xuyên của các Bộ, ngành, địa phương và từ nguồn huy động hợp tác quốc tế, Chính phủ đã bố trí cho các Bộ, ngành, địa phương 9.160 triệu đồng để thực hiện Dự án “Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới” thuộc Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 - 2020 (trong đó Bộ, ngành 4.900 triệu đồng; địa phương 4.260 triệu đồng).

+ Bên cạnh ngân sách trung ương, một số địa phương chủ động bố trí kinh phí từ ngân sách địa phương để thực hiện Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, ...

Trong 6 tháng đầu năm 2017, ngoài nguồn kinh phí thường xuyên của các Bộ, ngành, địa phương bố trí cho công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, chưa thực hiện phân bổ kinh phí thực hiện Dự án “Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới” thuộc Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 – 2020. Việc chậm phân bổ kinh phí đang gây ra những khó khăn nhất định cho việc triển khai các hoạt động bình đẳng giới từ cấp Trung ương đến địa phương.

8. Hoạt động hợp tác quốc tế về bình đẳng giới

Trong năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan chủ động, tích cực tham gia đóng góp tiếng nói tại các diễn đàn quốc tế toàn cầu (Liên hợp quốc) và khu vực (APEC, ASEAN) cũng như đẩy mạnh hợp tác với các đối tác truyền thống. Cụ thể như sau:

- Duy trì tham gia nghĩa vụ thường niên của Ủy ban Địa vị Phụ nữ Liên Hợp quốc (CSW) lần thứ 60 và 61 với sự tham dự của đoàn đại biểu cấp cao tại Phiên họp định kỳ nhằm cập nhật công tác về bình đẳng giới, thúc đẩy thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam  tham gia như Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Cương lĩnh hành động Bắc Kinh vì sự tiến bộ của phụ nữ và các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) theo nguyên tắc bình đẳng giới.

- Đối với hợp tác trong APEC, với trọng tâm chuẩn bị cho công tác đăng cai và tổ chức Diễn đàn Phụ nữ và Kinh tế trong APEC năm 2017, trong năm 2016 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tham gia tích cực trong vai trò là Đồng Chủ tịch Diễn đàn với Peru. Năm 2017, với vai trò nước chủ nhà APEC, Diễn đàn Phụ nữ và kinh tế APEC do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì đã xác định 03 nội dung ưu tiên là thúc đẩy bình đẳng giới vì tăng trưởng kinh tế bao trùm; nâng cao năng lực cạnh tranh và sáng tạo của các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ; và thu hẹp khoảng cách giới trong phát triển nguồn nhân lực. Vào tháng 5/2017, trong khuôn khổ Hội nghị các quan chức APEC cao cấp lần thứ II (SOM II) tại Hà Nội, Hội nghị Nhóm Đối tác chính sách về Phụ nữ và Kinh tế lần thứ nhất (PPWE1) đã được tổ chức. Tại Hội nghị này đã thảo luận, thống nhất kế hoạch công tác năm của PPWE, Kế hoạch chiến lược giai đoạn 2015 – 2018, các vấn đề mới đặt ra quyết định đến nhiệm vụ chung, cập nhật tình hình thực hiện các hoạt động/sáng kiến, tình hình lồng ghép giới liên diễn đàn, góp ý xây dựng Tuyên bố của Diễn đàn Phụ nữ và Kinh tế và sơ bộ xác định được những vấn đề cần đưa lên các Bộ trưởng thông qua tại Diễn đàn Phụ nữ và Kinh tế vào tháng 9/2017.

- Tăng cường hợp tác song phương và đa phương về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ: Tiếp tục hợp tác hiệu quả với Đại sứ quán Úc và Hàn quốc tại Việt Nam; các cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam như: Quỹ Dân số Liên hợp Quốc (UNFPA), Cơ quan phụ nữ Liên hợp quốc (UN Women) để tăng cường hỗ trợ về kỹ thuật của các chuyên gia trong nước và quốc tế nhằm thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020, Đề án phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến 2030. Các dự án viện trợ phát triển chính thức (ODA) tài trợ trực tiếp cho lĩnh vực bình đẳng giới tới năm 2016 còn thực hiện 04 dự án, với tổng số vốn ODA ký kết đạt khoảng 5,46 triệu USD, trong đó toàn bộ là vốn viện trợ không hoàn lại. Bên cạnh đó, nhiều nhà tài trợ ODA và phi chính phủ nước ngoài đang hỗ trợ các cơ quan của Chính phủ, cũng như các tổ chức chính trị - xã hội các dự án và phi dự án với quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ, hoặc dưới dạng các hợp phần của các dự án có lồng ghép nội dung bình đẳng giới thuộc các lĩnh vực khác nhau.

II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI NĂM 2016

Theo báo cáo của 26/29 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 62/63 tỉnh, thành phố, tình hình thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới đạt được như sau:

Trong tổng số 22 chỉ tiêu thuộc 7 mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 có:

- 6 chỉ tiêu đạt theo yêu cầu của Chiến lược đề ra (gồm: chỉ tiêu về tạo việc làm mới; tỷ số giới tính khi sinh; tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây truyền HIV; giảm tỷ lệ phá thai; tỷ lệ các đài phát thanh truyền hình có chuyên mục về bình đẳng giới; tỷ lệ tập huấn cho cán bộ làm công tác bình đẳng giới).

- 16 chỉ tiêu không đạt, gồm:

+ 02 chỉ tiêu của Chiến lược đề ra chưa phù hợp, do chỉ tiêu đặt ra quá cao không sát với tình hình thực tế (chỉ tiêu về tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng, đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021).

+ 03 chỉ tiêu không có khả năng thu thập, Thủ tướng Chính phủ sẽ giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ hướng sửa đổi (gồm: chỉ tiêu nữ lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan, tổ chức có tỷ lệ trên 30% nữ; chỉ tiêu giảm tỷ lệ sản phẩm mang định kiến giới; chỉ tiêu rút ngắn thời gian tham gia công việc gia đình của nữ so với nam)

+ 11 chỉ tiêu của Chiến lược chưa đạt do các phân tổ chưa phù hợp với hệ thống thống kê số liệu, chưa đủ nguồn lực và cần thêm các giải pháp để thực hiện Chiến lược (gồm các chỉ tiêu về: tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp; tỷ lệ nữ lao động nông thôn được đào tạo; tỷ lệ phụ nữ được vay vốn; tỷ lệ biết chữ của nam và nữ; tỷ lệ nữ thạc sỹ, tiến sỹ; giảm tỷ lệ tử vong mẹ; tỷ lệ nạn nhân và người gây bạo lực được tư vấn, hỗ trợ; tỷ lệ nạn nhân bị buôn bán trở về được hưởng các dịch vụ; tỷ lệ văn bản được lồng ghép giới; tỷ lệ ban soạn thảo, tổ biên tập được tập huấn; bố trí cán bộ làm công tác bình đẳng giới).

Kết quả cụ thể việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2016 như sau:

1. Mục tiêu “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”

- Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng nhiệm kỳ 2015 - 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 trên 35%.

Theo thông báo kết quả bầu cử tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Báo cáo kết quả đại hội đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2015 - 2020 cho thấy tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy tại cả 3 cấp cơ sở, huyện, tỉnh đều không đạt tỷ lệ 25% đề ra (số liệu này đã được báo cáo tại Báo cáo số 76/BC-CP ngày 15/3/2016 của Chính phủ về tình hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2015 và giai đoạn 2011-2015).

Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đạt được như sau:

+ Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 26,72%, tăng 2,62% so với nhiệm kỳ trước.

+ Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 cấp tỉnh đạt 26,54% (tăng 1,37%); cấp huyện đạt 27,85% (tăng 3,23%) và cấp xã đạt 26,59% (tăng 4,88%).

Mặc dù, kết quả chưa đạt chỉ tiêu so với Chiến lược đề ra, tuy nhiên sau 2 khóa Quốc hội (XII và XIII) liên tục giảm, nhiệm kỳ này đã bắt đầu có sự tăng trở lại, đồng thời cũng đánh dấu một sự kiện quan trọng là lần đầu tiên Việt Nam có nữ Chủ tịch Quốc hội. Đây cũng là nhiệm kỳ có tỷ lệ nữ ứng cử viên sau vòng hiệp thương 3 cao nhất so với một số nhiệm kỳ gần đây, đạt 38,79%. Bên cạnh những “điểm sáng” như Bắc Kạn có 4/6 đại biểu là nữ (đạt 66,67%), Bắc Giang đạt 62,5% và Quảng Ngãi đạt 57,14%, vẫn có 3 tỉnh (Quảng Nam, Tây Ninh, Thừa Thiên - Huế) không có nữ đại biểu Quốc hội. Có 23 địa phương chưa bố trí đủ số nữ ứng cử viên trong danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội. Điều này cho thấy cần nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực hiện các văn bản chỉ đạo liên quan đến công tác cán bộ nữ và quan tâm hơn đến công tác quy hoạch cán bộ, chuẩn bị nguồn nhân lực tham gia ứng cử. Bên cạnh đó, cũng cần có giải pháp để tăng số nữ đại biểu Quốc hội chuyên trách.

         - Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ

Tính đến hết 6/2017, có 12/30 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nữ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt, đạt tỷ lệ 40%, gồm: 10/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 02/08 cơ quan thuộc Chính phủ.   

Ở cấp tỉnh, có 16/63 địa phương có nữ lãnh đạo chủ chốt (gồm 01 địa phương có nữ giữ chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và 15 địa phương có nữ giữ chức danh Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh), chiếm tỷ lệ 25,39%.

Ở cấp huyện, một số địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp huyện cao từ 20% trở lên như: Bình Dương (24,24%), thành phố Hồ Chí Minh (22,45%), Ninh Bình (20,69%). Các tỉnh Cà Mau, Bình Thuận, Bình Định không có nữ lãnh đạo, quản lý cấp này.

Ở cấp xã, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã cao nhất (chiếm 32,18%), tiếp theo là các tỉnh, thành phố Đà Nẵng (25,79%), Bình Dương (25,40%), Đồng Nai (24,8%). Nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới 5%, trong đó phần lớn là các tỉnh, thành phố miền Bắc.

- Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2020 đạt 70% cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động

Số liệu của chỉ tiêu này rất khó để thu thập, hiện nay Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội, cơ quan chủ trì thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đang hoàn thiện hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ chỉ tiêu này trong Chiến lược, trong đó việc đánh giá tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt đối với các Ban Đảng, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và chính quyền được chuyển vào thống kê ở Chỉ tiêu 2 của Mục tiêu 1 nêu trên, cụ thể:

Sửa đổi, bổ sung Chỉ tiêu 2: “Phấn đấu đến năm 2020 đạt 80% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các Ban đảng, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ”.

2. Mục tiêu “Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động”

- Chỉ tiêu 1: Hằng năm, trong tổng số người được tạo việc làm mới, bảo đảm ít nhất 40% cho mỗi giới (nam và nữ)

Thông tin về thị trường lao động ngày càng có nhiều hình thức phù hợp, tạo điều kiện để lao động nam và nữ được tiếp cận thông tin và tìm kiếm cơ hội về việc làm một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Năm 2016, giải quyết việc làm cho khoảng 1,641 triệu lao động, trong đó lao động nữ chiếm 48%. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến 1/7/2017 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính là 54,5 triệu người, trong đó lao động nam 28,3 triệu người chiếm 52%, lao động nữ 26,2 triệu người chiếm 48%.  

Tuy nhiên, chất lượng việc làm của lao động nữ còn chưa ổn định và thiếu bền vững bởi các yếu tố như: lao động nữ thường làm trong các ngành, lĩnh vực có trình độ chuyên môn không cao như dịch vụ, dệt may, da giày,... (chiếm khoảng 70% tổng số lao động trong các ngành này); 62,4% lao động nữ làm việc trong gia đình không hưởng lương/công và tự làm; 41,1% lao động nữ làm những công việc giản đơn; 43,6% lao động nữ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Lương bình quân hàng tháng của lao động nữ làm công hưởng lương khoảng 4,58 triệu đồng, thấp hơn so với lao động nam là 5,19 triệu đồng.

Tại thời điểm Quý I/2017, cả nước có 1.101,7 nghìn người trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, trong số lao động thất nghiệp nam là 654,8 nghìn người (chiếm 59,4%), lao động thất nghiệp nữ là 446,9 nghìn người (chiếm 40,6%). Theo hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp năm 2016, trong tổng số 592.440 người nộp hồ sơ đề nghị có 586.254 người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, trong đó tỷ lệ lao động nữ có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp chiếm 57,2% (tương đương 335.445 người), tỷ lệ lao động nam có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 42,8% (tương đương với 250.799 người).

Một nghiên cứu vừa được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (Viện Công nhân và Công đoàn Việt Nam) đưa ra đó là 80% phụ nữ tuổi trên 35 trong các khu công nghiệp đang bị đào thải hoặc tự bỏ việc. Có những trường hợp lao động nữ gắn bó với công việc hơn 10 năm nhưng lại bị cho nghỉ việc với lý do cơ cấu lại sản xuất hoặc tự nghỉ do không chịu được điều kiện làm việc khắc nghiệt. Vấn đề này đòi hỏi, Chính phủ phải sớm có những giải pháp và can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền lợi của người lao động đặc biệt là lao động nữ.

- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đạt từ 35% vào năm 2020

Qua rà soát có 36 địa phương báo cáo thống kê được số liệu về chỉ tiêu này trong năm 2016, trong đó chỉ có 10 địa phương đạt tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp từ 30% trở lên gồm: Sóc Trăng (37,2%), Bạc Liêu (35%), thành phố Hồ Chí Minh (33,06%), Bình Thuận (32%), Hậu Giang (31%), Kon Tum (30,91%), Ninh Thuận (30,2%), Trà Vinh (30,15%), Cao Bằng (30%). Riêng đối với Bình Dương, tỷ lệ nữ tham gia ban lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước đạt 50%.

- Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 50% vào năm 2020

Năm 2016, kết quả thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn đạt tỷ lệ 39,1%. Tuy nhiên, việc thống kê có phân tổ theo độ tuổi vẫn chưa thực hiện được, nên chưa có đủ căn cứ đánh giá kết quả thực hiện chỉ tiêu.

          Tuyển sinh đào tạo nghề được thực hiện linh hoạt, nhiều đợt trong năm theo hình thức xét tuyển tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có nhiều cơ hội vào học nghề. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt ở khu vực nông thôn được chú trọng, ước có khoảng trên 46% lao động nữ được học nghề theo chính sách của Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn; trên 40% lao động nữ được giải quyết việc làm.

Việc thống kê kết quả của Chỉ tiêu nay hiện đang gặp nhiều khó khăn do không bóc tách được tỷ lệ nữ lao động nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật. Mặt khác, theo Quyết định số 1965/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án về “đào tạo nghề lao động nông thôn đến năm 2020”, độ tuổi lao động nông thôn được quy định là trong độ tuổi lao động, tức là dưới 55 tuổi đối với lao động nữ ở nông thôn. Do vậy, đề xuất sửa đổi Chỉ tiêu này như sau:

Sửa đổi Chỉ tiêu 3: “Tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 55 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 50% vào năm 2020”.

- Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc thiểu số có nhu cầu được vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các nguồn tín dụng chính thức đạt 100% vào năm 2020

  Chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo là một chính sách lớn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm nhằm giúp người nghèo chủ động vươn lên thoát nghèo, trong đó có những hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ. Công tác này được thực hiện qua nhiều kênh như: Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quỹ giúp phụ nữ nghèo xoá đói giảm nghèo, Quỹ Quốc gia về việc làm do ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí, các chương trình vay vốn do nước ngoài tài trợ...

  Hiện nay, chưa có số liệu tổng hợp về tỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc thiểu số có nhu cầu được vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các nguồn tín dụng chính thức. Nguyên nhân là do công tác thống kê và thu thập số liệu còn gặp một số khó khăn, vướng mắc nhất định.

Tuy nhiên, tính đến tháng 11/2016, tổng nguồn vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm đạt trên 5.040 tỷ đồng, doanh số cho vay hàng năm từ 2.000 – 2.500 tỷ đồng, góp phần hỗ trợ giải quyết việc làm cho khoảng 100 nghìn lao động mỗi năm (năm 2016 hỗ trợ tạo việc làm cho khoảng 105 nghìn lao động), trong đó lao động nữ chiếm khoảng 60%. Nhiều mô hình tạo việc làm, nâng cao tay nghề dành cho phụ nữ đã được hỗ trợ vay vốn như: mô hình câu lạc bộ chị em phụ nữ, mô hình tổ vay vốn, mô hình chị em yêu khoa học, mô hình phụ nữ liên kết với doanh nghiệp... đã góp phần tăng cường sự tham gia của lao động nữ trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội.

3. Mục tiêu “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo”

- Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt 95% vào năm 2020

Số liệu điều tra hiện trạng mù chữ theo độ tuổi của nam và nữ năm học 2016 của 63 tỉnh, thành phố như sau:

Tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-35 của toàn quốc là 98,69%, trong đó tỷ lệ biết chữ của người dân tộc thiểu số là 95,82%.

Tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15 - 60 của toàn quốc hiện nay là 97,73%, trong đó tỷ lệ biết chữ của người dân tộc thiểu số là 95,53%. Mặc dù tỷ lệ biết chữ của nam và nữ theo các nhóm tuổi đều >95%, tuy nhiên số liệu thống kê trên chưa khớp với phân tổ độ tuổi theo chỉ tiêu của Chiến lược. Theo đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo cần điều chỉnh chỉ tiêu này cho phù hợp với Đề án Xoá mù chữ đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt theo Quyết định số 692/2013/QĐ-TTg để đáp ứng việc thống kê và báo cáo số liệu. Do đó, Chỉ tiêu này dự kiến được sửa đổi như sau:

Sửa đổi, bổ sung chỉ tiêu 1: “Tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 60 đạt 98% vào năm 2020. Trong đó, tỉ lệ người biết chữ ở 14 tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đạt 94%, tỉ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ đạt 90%”.

- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 50%, tỷ lệ tiến sỹ đạt 25% vào năm 2020

Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2016, ngành giáo dục có 6/65 nữ Giáo sư (chiếm tỷ lệ 9,23%), có 198/638 nữ Phó giáo sư (chiếm tỷ lệ 29,53%). Tuy nhiên, hiện chưa có số liệu thống kê tỷ lệ nữ thạc sỹ và tiến sỹ trên phạm vi toàn quốc nên chưa có căn cứ để đánh giá việc thực hiện chỉ tiêu này.

4. Mục tiêu “Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe”

- Chỉ tiêu 1: Tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 115 trẻ sơ sinh trai/trẻ sơ sinh gái vào năm 2020

Theo báo cáo của Bộ Y tế, tỷ số giới tính khi sinh năm 2016 là 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái, tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm 2015.

Để làm rõ hơn nội hàm của Chỉ tiêu nay, đề xuất Thủ tướng Chính phủ sửa đổi như sau:

Sửa đổi chỉ tiêu 1: “Khống chế tốc độ tăng nhanh tỷ số giới tính khi sinh đảm bảo không quá 115 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2020”.

- Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống 52/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2020

Năm 2016, ước tính tỷ số tử vong mẹ ở mức khoảng 58/100.000 trẻ sơ sinh sống. Số liệu báo cáo thống kê hàng năm và so sánh với số liệu 2 cuộc điều tra chính thức trước đây cho thấy, tỷ số tử vong mẹ thực tế cao gấp 3-4 lần số tính toán theo báo cáo thống kê. Tỷ số tử vong mẹ ở miền núi cao khoảng gấp đôi so với con số toàn quốc và gấp khoảng 3 lần so với tử vong mẹ tại các vùng đồng bằng. Như vậy, cần có nhiều nỗ lực hơn nữa trong việc giảm tỷ lệ tử vong mẹ trong giai đoạn tới đây.

- Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con lên 50% vào năm 2020

Công tác dự phòng lây truyền từ mẹ sang con hiện đang được triển khai trên địa bàn toàn quốc với những định hướng mới đối với các can thiệp về phòng lây truyền từ mẹ sang con. Kết quả đạt được như sau: tỷ lệ phụ nữ mang thai được điều trị dự phòng giúp giảm lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đạt 55,7%, tỷ lệ trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV được làm xét nghiệm HIV trong vòng 02 tháng sau sinh đạt 48,4%, ước tính tỷ lệ trẻ nhiễm HIV sinh ra từ mẹ nhiễm HIV trong vòng 12 tháng qua là 12,4%.

Kết quả trên cho thấy, ngành y tế Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thực hiện hiệu quả mục tiêu chặn đứng và đẩy lùi tình trạng lan rộng của bệnh dịch HIV/AIDS (một trong 4 Mục tiêu Thiên niên kỷ về y tế).

          - Chỉ tiêu 4: Giảm tỷ lệ phá thai xuống 25/100 trẻ đẻ sống vào năm 2020

Kết quả 9 tháng đầu năm 2016 toàn quốc có 173.504 trường hợp phá thai trên tổng số 1.104.559 trẻ đẻ sống (so với cùng kỳ năm 2015 là 220.723 trường hợp phá thai trên 1.200.466 trẻ đẻ sống). Số ca phá thai ở các vùng đều giảm, trừ vùng Đồng bằng sông Hồng tăng nhẹ. Tỷ số ca phá thai của toàn quốc ước tính năm 2016 là 14/100 ca đẻ sống (giảm so với năm 2015 - 16/100).

Tuy nhiên, mặc dù chưa thống kê được số liệu cụ thể song thực tế cho thấy tình trạng phá thai quá phạm vi cho phép vẫn diễn ra khá phổ biến ở các cơ sở y tế tư nhân. Đây là nội dung mà Chính phủ đã chỉ đạo Bộ, ngành chức năng tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm.

Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con tuy đã được thống kê và tổng hợp trong báo cáo đánh giá của Bộ Y tế, nhưng số liệu thống kê của chỉ tiêu này vào năm 2010 lại không có, nên rất khó đánh giá theo đúng yêu cầu của Chiến lược. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về giảm tỷ lệ lây chuyền HIV từ mẹ nhiễm HIV sang con đã được đưa vào Kế hoạch hành động về bình đẳng giới của ngành Y tế trong cả hai giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020. Do vậy, đề xuất bổ sung thêm chỉ tiêu cho mục tiêu này như sau:

Bổ sung chỉ tiêu 5: Giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ nhiễm HIV sang con xuống dưới 3% vào năm 2020.

5. Mục tiêu “Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin”

- Chỉ tiêu 1: Chiến lược quy định đến năm 2020 giảm 80% sản phẩm văn hóa, thông tin mang định kiến giới; tăng thời lượng phát sóng các chương trình, chuyên mục và số lượng các sản phẩm tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới

Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương việc thu thập số liệu để đánh giá chỉ tiêu này là rất khó khăn. Số lượng các sản phẩm văn hóa, thông tin được xuất bản hàng năm là rất lớn nên chưa có đủ nguồn lực để thực hiện các đánh giá về chỉ tiêu này. Do đó, trong thời gian qua chỉ có một số ít cơ quan, đơn vị đã tiến hành công tác kiểm tra các sản phẩm văn hóa thông tin mang định kiến giới, còn đa phần các địa phương chưa triển khai được Hiện chỉ tiêu này đang được đề xuất thay thế bằng chỉ tiêu phù hợp hơn, cụ thể:

Thay thế chỉ tiêu 1: “Phấn đấu hàng tháng có ít nhất 02 chuyên mục tuyên truyền về bình đẳng giới trên hệ thông tin cơ sở tại các xã, phường, thị trấn vào năm 2020”.

- Chỉ tiêu 2: Đến năm 2020 có 100% các đài phát thanh và đài truyền hình ở trung ương và địa phương có chuyên mục, chuyên đề nâng cao nhận thức về bình đẳng giới

Về cơ bản 100% các đài phát thanh và truyền hình ở trung ương và địa phương có chuyên mục, chuyên đề nâng cao nhận thức về bình đẳng giới. Song thực tế cho thấy, mặc dù số lượng tin, bài tương đối phong phú nhưng chủ yếu mới phản ánh các hoạt động, sự kiện, hội nghị, hội thảo về bình đẳng giới, còn việc truyền tải các kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm hay trong công tác bình đẳng giới chưa nhiều; hoạt động phối hợp trong công tác tuyên truyền giữa báo chí với các cơ quan chức năng ở một số nơi đôi khi còn chưa chặt chẽ; công tác đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn gặp nhiều khó khăn; đội ngũ tuyên truyền viên phục vụ công tác còn thiếu và yếu. Hình thức tuyên truyền chưa phong phú, hấp dẫn nên hiệu quả chưa cao.

6. Mục tiêu “Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới”

- Chỉ tiêu 1: Rút ngắn khoảng cách về thời gian tham gia công việc gia đình của nữ so với nam xuống 2 lần vào năm 2015

Theo tổng hợp, các địa phương báo cáo gặp rất nhiều khó khăn trong đánh giá chỉ tiêu này. Chỉ tiêu này đã được đề cập tại Bộ chỉ tiêu phát triển giới quốc gia, tuy nhiên Tổng cục Thống kê chưa thể đo lường được chỉ tiêu này,chưa có cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện thống kê số liệu. Chỉ tiêu này mang tính ước lượng, không có công thức tính, rất khó đánh giá chính xác. Muốn thống kê được chỉ tiêu này cần có điều tra, khảo sát cụ thể trên quy mô lớn. Chỉ tiêu này đang được đề xuất bãi bỏ trong Chiến lược.   

- Chỉ tiêu 2: Đạt 50% số nạn nhân của bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn về pháp lý và sức khỏe, được hỗ trợ và chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình; 85% số người gây bạo lực được phát hiện được tư vấn tại cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình vào năm 2020

Theo số liệu tổng hợp của 51/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tình hình bạo lực gia đình năm 2016 cho thấy có 13.765 vụ bạo lực gia đình. Số vụ bạo lực gia đình có nạn nhân là phụ nữ là 9.733 vụ. Tổng số nạn nhân bạo lực gia đình đến cơ sở khám, chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, địa chỉ tin cậy ở cộng đồng để được tư vấn về pháp lý và sức khỏe, được hỗ trợ và chăm sóc là 16.962 người. Số người gây bạo lực gia đình được tư vấn là 6.859 người/13.765 vụ bạo lực gia đình.

Việc thu thập số liệu về bạo lực gia đình tại các địa phương trong những năm vừa qua đã được các tỉnh/thành phố triển khai thường xuyên, có hệ thống với nhiều nỗ lực đảm bảo sự chính xác, đầy đủ. Tuy nhiên, các số liệu này vẫn chủ yếu do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động thu thập mà chưa có cơ chế cung cấp thông tin, số liệu giữa các cơ quan tham gia công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Một khó khăn nữa là các chỉ tiêu về bạo lực gia đình trong các văn bản hiện nay chưa thống nhất về nội dung. Do vậy, gây khó khăn cho các địa phương để thu thập và cơ quan chịu trách nhiệm tổng hợp, báo cáo.

Đối với chỉ tiêu này, có thể đánh giá đạt về số nạn nhân được tư vấn nhưng chưa đạt về số người gây bạo lực gia đình được tư vấn.

Hiện nay, hệ thống cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình chưa được phổ biến. Ngoài ra, trong hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình, khi vụ việc bạo lực gia đình được phát hiện cũng sẽ được xử lý hành chính hoặc hình sự tùy theo tính chất vụ việc. Trong quá trình xử lý, cả nạn nhân và người gây bạo lực gia đình đều sẽ được tư vấn, cung cấp thông tin về phòng, chống bạo lực gia đình bởi cá nhân, tổ chức tham gia xử lý vụ việc. Do vậy điều chỉnh lại nội dung chỉ tiêu này sẽ phù hợp với thực tiễn và đảm bảo tính khả thi, cụ thể:

Sửa đổi chỉ tiêu 2 như sau: “Đến năm 2020 đạt 50% số nạn nhân của bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn về pháp lý và sức khỏe, được hỗ trợ và chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình và đạt 75% số người gây bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn tại các cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình”.

- Chỉ tiêu 3: Có 100% số nạn nhân bị buôn bán trở về thông qua trao trả, được giải cứu, số nạn nhân bị buôn bán tự trở về được phát hiện được hưởng các dịch vụ hỗ trợ và tái hòa nhập cộng đồng

Năm 2016, các cơ quan chức năng đã tổ chức giải cứu, tiếp nhận 327 nạn nhân bị mua bán trở về. Căn cứ theo nhu cầu và nguyện vọng của nạn nhân, sau khi tiếp nhận, có 211 nạn nhân được hỗ trợ hòa nhập cộng đồng. Sau khi tiếp nhận nạn nhân, các địa phương đã lập hồ sơ, tiến hành các thủ tục hỗ trợ cho nạn nhân bị mua bán trở về theo các quy định. Tập trung vào hỗ trợ học nghề và trợ cấp khó khăn ban đầu.

Các địa phương tiếp tục duy trì các mô hình về phòng, chống mại dâm và hỗ trợ người bán dâm tái hòa nhập cộng đồng, giúp 10.291 lượt người bán dâm và người có nguy cơ cao được hưởng lợi từ các mô hình. Theo báo cáo của các địa phương, năm 2016 có 4.504 lượt người bán dâm được hỗ trợ giảm hại và hòa nhập cộng đồng.

7. Mục tiêu “Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới

- Chỉ tiêu 1 và 2: Chiến lược đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020: có 100% dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới; có 100% thành viên các Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được tập huấn kiến thức về giới, phân tích giới và lồng ghép giới.

Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2016 đã chú trọng đến công tác lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, đảm bảo không có quy định phân biệt đối xử về giới. Bên cạnh đó, công tác tập huấn kiến thức về giới, phân tích giới và lồng ghép vấn đề bình đẳng giới cho các thành viên Ban soạn thảo và Tổ biên tập xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã được các Bộ, ngành, địa phương quan tâm. Tuy nhiên, việc thu thập số liệu trên toàn quốc về lồng ghép vấn đề giới trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa thực hiện được, vì vậy chưa có cơ sở để đánh giá chỉ tiêu này.

  - Chỉ tiêu 3 và 4: Chiến lược đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020: các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí đủ cán bộ làm công tác bình đẳng giới; hình thành đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên tham gia công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; 100% cán bộ, công chức, viên chức làm công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ ở các cấp, các ngành được tập huấn nghiệp vụ ít nhất một lần

Hiện tại, ngoài 2 địa phương là thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Sóc Trăng bố trí được từ 2 đến 1/2 định biên cán bộ làm công tác bình đẳng giới cấp xã, còn hầu hết đều do 1 công chức xã đảm nhiệm tất cả các lĩnh vực của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.

Việc tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các cấp, các ngành ngày càng được quan tâm và thực hiện thường xuyên. Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương, về cơ bản 100% cán bộ làm công tác bình đẳng giới thường xuyên được tập huấn, nâng cao kiến thức hằng năm. Như vậy, tỷ lệ này đạt so với chỉ tiêu Chiến lược đề ra.

Việc bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức về bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ pháp chế của các Bộ, ngành, địa phương đã được lồng ghép vào quá trình triển khai Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hình thức tập huấn này đã giúp cho các cán bộ pháp chế hiểu sâu sắc việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

III. ĐÁNH GIÁ, KIẾN NGHỊ

1. Đánh giá chung

Năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017, công tác bình đẳng giới tiếp tục được quan tâm thực hiện trên cơ sở triển khai các nội dung, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020 và các văn bản chỉ đạo, điều hành liên quan của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương.

Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành chức năng nghiêm túc triển khai thực hiện các kiến nghị của Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội tại Báo cáo thẩm tra báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2015 và giai đoạn 2011 - 2015 (Báo cáo số 4673/BC-UBVĐXH13 ngày 21/3/2016), cụ thể như: Tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 (Báo cáo số 32/BC-LĐTBXH ngày 20/5/2016 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); triển khai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong đó có quan tâm tới nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về bình đẳng giới; bồi dưỡng kiến thức giới, lồng ghép giới cho cán bộ làm công tác bình đẳng giới và cán bộ hoạch định chính sách của các Bộ, ngành, địa phương,... Ngoài ra, một số nội dung đang được các cơ quan chức năng liên quan tiếp tục triển khai như: Nghiên cứu, sửa đổi Bộ chỉ tiêu thống kê giới quốc gia theo hướng lựa chọn các chỉ tiêu cần thiết, khả thi phù hợp với cam kết quốc tế và xây dựng lộ trình thực hiện; xây dựng Đề án chính sách đặc thù hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số.

Với nỗ lực của các cấp, các ngành, một số kết quả nổi bật trong công tác bình đẳng giới đạt được như: chính sách, pháp luật về bình đẳng giới tiếp tục được hoàn thiện, trong đó có các chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội được ban hành; các hoạt động nhằm tăng tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả, góp phần tăng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021; Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới lần đầu tiên được tổ chức song đã tạo được sự lan tỏa rộng rãi và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, hưởng ứng, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao; ở cấp xã, tiêu chí về bảo đảm bình đẳng giới đã được đưa vào áp dụng để làm căn cứ đánh xã đạt chuẩn xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020.

          Với vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có nhiều nỗ lực trong triển khai các nhiệm vụ được giao. Năm 2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã làm tốt một số nhiệm vụ như: tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 178/QĐ-TTg ngày 28/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Thông báo kết luận số 196-TB/TW ngày 16/3/2015 của Ban Bí thư về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”, Quyết định số 1464/QĐ-TTg ngày 22/7/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” và Quyết định số 668/QĐ-TTg ngày 16/5/2017 phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện khuyến nghị của Ủy ban về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ của Liên hợp quốc;tham gia góp ý về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường tập huấn nâng cao năng lực về bình bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới; đẩy mạnh các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức về bình đẳng giới với quy mô lớn hơn và tập trung vào những vấn đề, đối tượng cụ thể; thực hiện hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới.

2. Tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác bình đẳng giới trong năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017 còn một số tồn tại, hạn chế như:

- Sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền một số địa phương, Bộ, ngành (nhất là người đứng đầu) còn chưa thật sự sát sao, thực chất do đó công tác bình đẳng giới hoạt động còn mang tính hình thức, chưa đạt được hiệu quả mong muốn

- Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu trước đây đặt ra quá cao, chưa sát với thực tiễn nên không thể hoàn thành. Ví dụ chỉ tiêu nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo Nghị quyết 11-NQ/TW là quá cao; mặt khác, vẫn còn 23 tỉnh có tỷ lệ nữ ứng cử viên dưới 35% trong danh sách chính thức bầu cử đại biểu Quốc hội, như vậy không đạt tỷ lệ nữ ứng cử viên tối thiểu theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân song chưa có biện pháp xử lý.

- Định kiến giới còn tồn tại gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới tại địa phương, cơ sở; bên cạnh đó một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an phận.

- Công tác thông tin, báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương còn chưa đảm bảo đúng tiến độ, thông tin đôi khi còn hạn chế, thiếu tính cụ thể rõ ràng làm ảnh hưởng đến công tác tổng hợp chung.

 - Nguồn thông tin và cơ sở dữ liệu có tách biệt giới tính đang trong quá trình hình thành, hoàn thiện, do đó chưa đáp ứng yêu cầu của việc phân tích giới và lồng ghép giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới còn mỏng (nhất là tại các địa phương) nên chưa thực sự phát huy được vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc tham gia đánh giá về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các văn bản quy phạm pháp luật và các chương trình, dự án khác. Kinh phí triển khai các hoạt động hạn hẹp chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao và bố trí muộn dẫn đến việc triển khai các hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý gặp nhiều khó khăn, không chủ động.

          3. Kiến nghị

          Chính phủ đề nghị Quốc hội tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách về bình đẳng giới ở các Bộ, ngành, địa phương.

IV. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 6 THÁNG CUỐI NĂM 2017

          Trong 6 tháng cuối năm 2017, Chính phủ sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

          1. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi về bình đẳng giới, trong đó tập trung triển khai các hoạt động hưởng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới trong thời gian từ 15/11-15/12/2017.

          2. Tổ chức Tổng kết 10 năm thi hành Luật Bình đẳng giới trên phạm vi toàn quốc để đánh giá toàn diện về tình hình thực hiện và tác động của việc thi hành Luật Bình đẳng giới, các văn bản hướng dẫn Luật Bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; đánh giá sự phù hợp của Luật Bình đẳng giới với Hiến pháp năm 2013 và sự thống nhất, đồng bộ của Luật Bình đẳng giới với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan; đánh giá sự tương thích của Luật Bình đẳng giới với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW); đồng thời đề xuất giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế là cơ sở để Chính phủ trình Quốc hội về các biện pháp, giải pháp nhằm đảm bảo hoàn thiện hệ thống thực thi chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.

3. Yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương nghiêm túc thực hiện quy định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật; lồng ghép các chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong chiến lược, chương trình, kế hoạch công tác của Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

          4. Bố trí kinh phí thực hiện các chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020, Đề án Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và các Đề án, Chương trình khác có liên quan;  chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương bảo đảm nguyên tắc ưu tiên bố trí ngân sách để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới theo quy định của Luật ngân sách nhà nước năm 2015 (Điều 8, Điều 41).

          5. Nghiên cứu, phát triển các mô hình cung cấp dịch vụ thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó tập trung tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho người lao động yếu thế như: Mô hình hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, khởi sự và phát triển doanh nghiệp theo mô hình chuỗi giá trị sản phẩm; mô hình “Vận dụng các nguyên tắc trao quyền cho phụ nữ trong thực hiện bình đẳng giới” tại doanh nghiệp để hướng dẫn cách thức trao quyền cho phụ nữ trong kinh doanh, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh góp phần cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập và yêu cầu về các chuẩn mực quốc tế, trong đó có tiêu chuẩn lao động; mô hình Câu lạc bộ nữ công nhân nhà trọ tại khu công nghiệp, khu chế xuất để tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận tốt hơn các thông tin, dịch vụ công và tham gia các hoạt động đoàn thể tại nơi cư trú, …

          6. Quan tâm hơn nữa công tác đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo và các cơ quan dân cử, đặc biệt đối với nữ lãnh đạo trẻ, nữ dân tộc thiểu số; đồng thời phát huy vai trò của người đứng đầu trong việc bố trí, phân công công tác đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo đúng quy định về bình đẳng giới.

          7. Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, trong đó trọng tâm là hoạt động tổ chức thành công Diễn đàn phụ nữ và kinh tế APEC 2017.

          8. Tăng cường công tác kiểm tra công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ; thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới./.    

Không có thông tin
Không có thông tin
Không có thông tin
Không có thông tin